Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

ĐÔNG CHÊNH VÊNH

Cái nắng nhẹ nhàng hay bốc lửa của mùa thu 
rồi cũng sẽ lắng thành trầm tích. Một mùa chảy 
trong mình đầy ắp những rêu phong. Có khi một
 nỗi buồn có thể phá hỏng một mùa thu, nhưng
 cũng có khi một sự phủ phàng lại làm ta hạnh phúc. 
Giống như  mùa đông vậy, đem đến những cơn 
mưa, mưa buồn nhưng ta lại không bị nắng làm
 bỏng rát da người. Lại vu vơ trong những mâu thuẩn 
đan xen lắm lúc cái gì cũng yêu, lắm khi cái gì 
cũng chán…Thu hay đông cứ như một vòng tuần
 hoàn không lỡ hẹn, không vướng bận nhưng lại 
chợt nắng chợt mưa lắm thất thường có khi lại 
giống ta…nên đừng buồn, đừng chán cứ yêu mùa 
đông như yêu lấy chính mình!
HBT



Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

VIẾT CHO NGÀY NHÀ GIÁO-DPH


VỀ TRƯỜNG XƯA ĐI EM



  •  
  • Về trường xưa đi em
    Cùng anh tìm chỗ ngồi mấy chục năm về trước
    Ngôi trường nhỏ mái tranh thưa mưa dột
    Mặt bàn nghiêng hộc mực lặm lâu rồi
    Cây phượng già gắng giữ vẻ xanh tươi
    Hoa nở muộn đợi em về thăm lại.

    Về cùng anh tìm ngày xưa thơ dại
    Chuyện chúng mình câu cút dọc triền sông
    Con cút kia thích má em hồng
    Mê sợi tóc hương dầu dừa em gội
    Cút ngoan ngoãn lườn ra không phải đợi
    Em cười xòa nước mắt nhòe mi.

    Anh nào bằng con cút nhỏ tí ti
    Chẳng biết thích, chẳng mê gì em cả
    Cho đến một hôm anh thấy mình là lạ
    Sau cái lần hai đứa giả hợp hôn
    Từng chiều qua anh thổn thức vui buồn
    Anh lo sợ mất em ngày em lớn.
    Tiếc ngày xưa AĐam ăn trái cấm
    Nàng EVa luống chịu ngậm ngùi
    Anh và em là “nhân nợ” ấy thôi
    Đành phải trả món “nợ trần” vay trả
    Cũng từ đó hai đứa thành xa lạ
    Mỗi phương trời ai nấy một đời riêng.

    Đến hôm nay ký ức gọi tên miền
    Chốn cũ vườn Bùi, ngày xanh một thưở
    Trân trọng mời em về thăm trường cũ
    Cho anh làm chú rể hợp hôn xưa
    Để được thơm mái tóc dầu dừa
    Để được ngắm má em hồng hơn mỹ nữ.

    Xin em hãy nhanh về thăm trường cũ!
     An Sơn Nguyễn

    Thứ Tư, 15 tháng 11, 2017

    THẦY TÔI


            Một ngày cuối thu!
            Cái ngày lớp tôi nhận tin đạt hai giải nhất. Một Toán. Một Văn. Hôm ấy, nhìn thầy vui như mặt trời mùa đông vừa thoát ra khỏi đám mây mù vậy. Đến giờ tôi mới hiểu niềm vui ngày ấy của thầy, niềm vui của những người tận tụy ươm mầm một khi cái mầm mình ươm đã đủ sức vươn mình nhú ra khỏi đất.
            Thế là chúng tôi được gọi về trường huyện để học lớp bồi dưỡng. Ngày đầu đi nhập học người đưa tôi đi không phải là mẹ mà là thầy. Thầy vừa là Hiệu phó vừa dạy hai môn Văn, Sử lớp tôi, nên thầy biết rất rõ hoàn cảnh gia đình của mỗi đứa. Đặc biệt là  hai đứa mồ côi cha, trong đó có tôi. 
            Một ngày đông lạnh!
            Ngày tôi bắt đầu lớn thêm lên cùng với những vòng xe quay của thầy! Ngồi sau chiếc xe đạp sườn ngang, tôi vừa lo vừa sợ, một nỗi sợ mơ hồ, mông lung của lần đầu tiên xa mẹ mà đến bây giờ như một lẽ hiển nhiên, tôi chẳng muốn quên.
            Đông ngày ấy rét lắm, nhưng cả thầy và trò chỉ mặc mỗi một lớp áo mỏng nhưng sao tôi không hề thấy lạnh. Có lẽ, tấm thân gầy của thầy đã đủ che những cơn gió rét cho tôi. Hai thầy trò dắt bộ lên đèo. Bóng thầy đỗ dài theo chiều đông…Trò đi trong nặng trĩu nỗi niềm, nặng trĩu mớ tư trang lĩnh kỉnh. Còn thầy thì  mặc gió, mặc mồ hôi cứ thao thao dặn học trò, như thầy đang làm thơ vậy. Bởi thầy nói với trò lắm lúc cũng như thơ.
    Này em! Xa nhà, em phải biết tự chăm sóc bản thân mình…
    Này em! Nơi mới cũng có thầy có bạn, mong em sẽ vui…
    Này em! Phải cố sức mà học cho bằng người…
    Này em!...
               Cứ thế cho đến hết đoạn đường  hơn mười cây số. Lời thầy dặn như nắng, như mưa, cứ dài thêm, nặng thêm trên mỗi bước đi, và tôi thì cố nắm giữ mớ hành trang, cố nắm giữ mỗi khi thầy dặn để khỏi đánh rơi một lời nào. 
               Những ngày tôi sống nơi tập thể cùng thầy cô trường huyện, tám tháng học nơi trường người, đếm số lần thầy đến thăm tôi nhiều hơn mẹ đến. Và cũng khác mẹ một điều là quà  thầy thường mang đến cho tôi không phải là môn nấu, mít hông hay sắn luộc... Mà là những lời dặn thật sâu, thật kỹ và cứ thế lại “Này em…”. Lần này thầy còn kể cho tôi nghe về những tấm gương như Beethoven hay Pavel Korchagin trong “Thép đã tôi thế đấy”. Cũng giống như lần mẹ đến, khi chia tay thầy, tôi khóc. Thấy tôi giấu nước mắt, thầy bảo “Con gái học văn thường yếu đuối lắm. Với em, em không có quyền được yếu đuối.” Từ đó, mỗi khi yếu lòng tôi thường vịn vào câu nói của thầy để đứng lên, để mạnh mẽ, để thể hiện cái quyền không được yếu đuối của mình.
              Lời đầu tiên thầy khuyên tôi là đừng nên bỏ cuộc. Bởi có lần tôi muốn bỏ cuộc vì đói khổ vì xa lạ vì nhớ mẹ, nhớ trường… 
             Một chiều cuối Chạp, trời bỗng nhiên nắng đẹp. Thầy đến trong nỗi xốn xang mong ngóng Tết về. Ngoài những lời dặn dò mang vác, thầy còn tặng tôi cuốn lịch túi thật dễ thương. Rồi một lần nhớ  mẹ, nhớ thầy, nhớ lớp 9 trường làng quá, lại lấy cuốn lịch ra để đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa đến ngày được lên tỉnh đi thi, cũng đồng nghĩa với bao nhiêu ngày nữa được trở về với mẹ với thầy, rồi đọc vội những câu danh ngôn trong cuốn lịch. Tôi mới nhận ra một điều, cuốn lịch thầy cho không chỉ là thầy muốn tôi sống, học tập trọn vẹn từng ngày nơi phía không thầy mà còn mượn những câu danh ngôn thay thầy dạy tôi từng lẽ sống. (thầy ghi vào cạnh câu danh ngôn, “Em nhớ đọc và cố thuộc…”) Trong đó có cả những câu danh ngôn mà tác giả chính là thầy.     
     “Bỏ cuộc là thất bại lớn nhất” (Thầy NN)
     “Hãy từ bỏ nỗi sợ hãi và dũng cảm làm điều bạn muốn” (Thầy NN)
              Tôi đã cố sống và học theo lời thầy dặn. Những câu danh ngôn thầy cho, tôi đã  thuộc và học mãi vẫn không hết đến tận bây giờ.
              Một ngày cuối năm học, giữa giờ chơi,… chợt thầy gọi tôi vào phòng làm việc, trao cho tôi một tờ giấy nhỏ và nói “Chúc mừng em đã không bỏ cuộc!” Tôi rưng rưng cầm tờ quyết định tuyển thẳng vào lớp 10, muốn nói cảm ơn thầy nhưng không nói được câu nào, đến  tận bây giờ tôi vẫn chưa có cơ hội để  được nói hết cùng thầy về ngày ấy… 
              Cách đây sáu năm, vào một tối rất tình cờ khi xem chương trình thời sự của đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương nói về “Lòng nhiệt huyết của một Nhà giáo ưu tú”. Lần đầu nghe tin ấy nhưng sao tôi không ngỡ ngàng, không bất ngờ…Hình như, đó là một lẽ hiển nhiên cần phải nói về thầy tôi. Phần thưởng đến trong năm cuối cùng trước khi thầy rời bục giảng. Thưa thầy! “Đời mau quá vui buồn chưa kịp cũ. Đời mau quá tóc thầy khói phủ”. Em dõi theo bóng thầy vật vã với văn chương…
              Thời gian! Mỗi ngày là một vòng quay của trái đất. Riêng tôi còn có thêm những vòng quay ký ức, nơi chiếc xe đạp sườn ngang cũ kỷ của thầy. Đôi khi ký ức hiện về tôi bỗng thèm lắm cái cảm giác được  bé lại để ngồi sau lưng thầy để được thầy chở che những cơn gió lạ. Hôm nay, học trò xưa  đi lại đoạn đường xưa, đoạn đường một thời hoa gạo rụng đầy, màu đỏ như quyện vào hiện về trong nỗi nhớ. Tuổi thơ lại về trên từng vòng xe quay, vòng quay trên chiếc xe đạp ngày xưa được thầy chở đi trên đoạn đường đầy sỏi đá nhưng sao chẳng thấy chênh chao, gập ghềnh. Nhưng giờ đi trên con đường phẳng phiu như vừa mới ủi có lúc lại thấy chênh vênh…       Tháng năm dung dị hơn nhiều, khi những dấu vết thời gian từ tốn vẽ vời lên khóe mắt. Đi qua hết những hồn nhiên, qua hết thời niên thiếu với những mơ ước tươi hồng, chợt hoang hoải vì chẳng biết bao giờ mới cầm nắm những tươi hồng như trước. Cảm ơn đời đã khắc chạm một ký ức vàng son! Nơi ấy, cho ta hiểu không chỉ ngọt ngào mới làm nên hạnh phúc. Khắc ghi lời thầy trên từng trang sách, mà đến bây giờ chưa trang nào cũ hết thầy ơi! Và tôi sẽ dạy cho học trò mình giở lại từng sang sách ấy như là những trang giáo án cuộc đời.
               Giữa thời buổi, lắm nắng gió, mây ngàn giông bão, đến trái tim mình cũng có khi không giữ nỗi nhưng  ký ức về thầy về cuốn lịch cũ cùng những vòng xe quay, mãi là thứ hành trang không thể thiếu trong mỗi chuyến đi, không biết tự bao giờ nó đã thành những hạt dẻ trong tôi như những hạt dẻ nhiệm màu trong cổ tích…                                          

    (Đoàn Nhung- Trường THCS Nguyễn Viết Xuân, Tiên Phước)

    Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2017

    THANKS CON TRAi!

    Con bảo mẹ đợi con ít ngày nữa con sẽ có quà 20.11 cho mẹ. Và cứ thế mẹ đợi ..
    và cứ thế mẹ hình dung món quà tí hon từ con lần này chắc không phải là đồng đôla giả, chiếc móc khóa hay chiếc áo hàng si và cũng không thể là tấm thiệp tự tay con làm như thời trung học...
    Mẹ đã không ngờ món quà lần này lớn đến vậy ...Thanks con trai!  Hy vọng lần thi này con sẽ có nhiều like nhất và không chỉ là đứng thứ 3 như lần trước đâu hì. Chúc con thành công trong ngày chung kết! Mẹ!


    Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017

    MỘT CHIỀU

    Gia tài chiều nay là mớ kí ức mong manh
    Xin tạ tội những ngày xưa rong rỗi
    Chinh phạt đủ đầy khát  khao nông nỗi
    Sau bão giông giữa mênh mông ta về chốn yên bình...
    HBT


    Ngày xửa ngày xưa



    Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

    ẨN DỤ VÀ HOÁN DỤ TRONG THƠ VĂN​

    Ẩn dụ và hoán dụ là hai phép tu từ giữ địa vị chủ yếu trong cấu trúc văn thơ. Nếu những tìm tòi về ngữ học không ngừng soi sáng bộ môn thi học, nghiên cứu đến ngành ngọn chức năng của ẩn dụ trong thơ, thì ngược lại, vai trò hoán dụ trong văn xuôi ít được chú ý. Vì sao? Lý do đơn giản: thơ lấy ngôn ngữ làm giá trị tự tại trong khi văn dùng ngôn ngữ như một phương tiện dẫn giải. Giá trị của thơ chủ yếu nằm trong lời, giá trị của văn cốt ngụ ở ý. Vai trò của ẩn dụ trong thơ đã được trình bày trong chương trước. 

    Phần này chủ đích phân tích vai trò của hoán dụ. Tìm một định nghĩa, nhận định sự khác biệt với ẩn dụ và giải thích những áp dụng trong địa hạt văn, thơ. 
     Xin nhắc lại, ẩn dụ (métaphore) đựa trên tương quan tương đồng, là thay thế một khái niệm bằng một khái niệm khác, trên căn bản so sánh ngầm, nhưng vế bị so sánh và liên từ để so sánh đã bị xóa, chỉ còn lại vế đem ra so sánh. Ví dụ: Anh như con thuyền, em như cái bến trở thành: 
    Thuyền về có nhớ bến chăng 
    Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền 

    (Ca dao)
    Ẩn dụ là lối tạo hình cổ điển xuất hiện thường xuyên trong ngôn ngữ. Nhưng ẩn dụ dùng quen dễ thành nhàm, sáo, phải thay đổi, phải luôn luôn làm mới. Sự biến đổi không ngừng của ẩn dụ giải thích những tiến hóa của tiếng lóng, ký hiệu ngôn ngữ riêng của một thành phần xã hội (hoặc nghề nghiệp), chỉ người trong bọn mới hiểu nổi. Tiếng lóng dùng quen sẽ "lộ" và bị đào thải. 
    Trở lại địa hạt văn chương, nhà văn, nhà thơ vẫn có thể cách tân những ẩn dụ đã "sáo mòn" bằng cách tạo một hình ảnh mới. Ví dụ: chim sa, cá lặn là những hình ảnh rất cổ điển ca tụng vẻ đẹp của người đàn bà. Nhưng: 
    Chìm đáy nước, cá lừ đừ lặn 
    Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa 

    (Cung oán)
    lại khác. Những trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ tạo một tâm cảm cho cá, nhạn, biến chúng thành những nhân tố có tâm hồn, đã bị sắc đẹp quyến rũ, lôi cuốn, làm say sưa mê hoặc đến độ "ngẩn ngơ, lừ đừ". Ngoài ra cá lặn, nhạn sachỉ là những động tác chính xác, có tính cách không gian. Nhưng cá lừ đừ lặn, nhạn ngẩn ngơ sa thì khác: ở đây có thêm yếu tố thời gian lạc vào; những trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ láy âm bâng khuâng, man mác, vừa vang âm trong không gian, vừa kéo dài trong thời gian, vừa phôi pha ý nghĩa. Chúng tôi sẽ trở lại vai tò của từ láy trong chương VIII. 
    Với những ẩn dụ cổ điển: chim sa, cá lặn có tính cách chính xác và thuần túy không gian ấy, Ôn Như Hầu đã cách tân, tạo thêm cho ngôn ngữ những chiều kích mới: chiều dài của thời gian, chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong chiều rộng nhập nhòe của ngữ nghĩa. 
     *Hoán dụ (métonymie) dựa trên tương quan kết hợp, là thay thế một khái niệm bằng một khái niệm khác có với nó một liện hệ tất yếu. Ví dụ: 
    Liên hệ giữa đồ vật (objet) và chất liệu (matière): mặc (áo) lụa, mặc gấm, mặc nhung, v.v... 
    Liên hệ giữa vật chứa (contenant) và chất được chứa (contenu): uống một chén (nước), ăn hai, ba bát (cơm) v.v.... 
    Liên hệ nhân quả: dùng binh đao hay khói lửa... để chỉ chiến tranh. Hoặc viết: đỏ mặt tía tai để chỉ tình trạng giận lắm... 
    Liên hệ giữa bộ phận và toàn thể: dùng má hồng để chỉ người phụ nữ. 
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (Kiều) 
    Liên hệ giữa trang phục (hay phụ tùng) và con người: 
    Ðường hoa son phấn đợi 
    Áo gấm sênh sang về 
    (Vũ Hoàng Chương)
    Ẩn dụ và hoán dụ có những tính chất giống nhau: 
    1. Rút gọn lời nói và tạo hình. 
    2. Vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ. 
    3. Mang vào ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, do đó gây cảm xúc.
    và đồng thời cũng có những khác biệt sâu xa: 
    Ẩn dụ, tuy dựa trên tương quan tương đồng, nhưng thực ra khi ví: anh như chiếc thuyền, em như cái bến, thì cũng chẳng bắt buộc anh phải có vẻ gì giống thuyền và em phải có gì giống bến; nhất là khi đã bỏ các vế "em như, anh như" đi rồi thì thuyền và bến hoàn toàn tự do, có thể là anh, em hay bất kỳ một hình ảnh nào khác mà người đọc tưởng tượng ra. 

    Mặt khác, ngay trong tương quan anh-em, thuyền-bến cũng đã mơ hồ, không rõ ai là thuyền, ai là bến: 
    Theo gió thuyền xuôi 
    Sóng đưa bèo trôi 
    Tiếng đàn trầm trầm 
    Man mác lòng tôi 
    Nhìn con thuyền xa bến 
    Lòng ta còn lưu luyến... 

    (Con Thuyền Xa Bến, Lưu Bách Thụ)
    tiếng nhạc luyến say lời ca: Em đã đi, sóng đưa em đi, bèo trôi em đi... thuyền đây rõ là em vì có ta xác định vị trí của em. Niềm lưu luyến em cũng là của riêng ta. 
    Nhưng với Con Thuyền Không Bến của Ðặng Thế Phong: 
    Ðêm nay thu sang cùng heo may 
    Ðêm nay sương lam mờ chân mây 
    Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng 
    Như nhớ thương ai chùng tơ lòng 
    ... 
    Biết đâu bờ bến 
    Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu? 
    ... 
    Trên sông bao la 
    Thuyền mơ bến nơi đâu?

    thì không rõ ai là thuyền, ai là bến, ai thương nhớ ai... Qua ẩn dụ thuyền-bến, qua biến từ ai, qua những trạng từ có tính chất biến từ: đâu, nơi đâu, qua những động tác mông lung đưa đẩy: trôi, lững lờ trôi, xuôi dòng... Ðặng Thế Phong tạo sức phiếm định, nhiều chiều: ở đây, lưu luyến, nhớ thương, mơ tưởng đã trùng phùng và mờ xóa trong bao la, không bờ, không bến, không biết ai gửi cho ai. Ẩn dụ có tác dụng làm lu mờ ý nghĩa, do đó mở rộng địa bàn biểu đạt tư tưởng của ngôn từ. Cho nên, khi Ôn Như Hầu viết: "Trải vách quế gió vàng hiu hắt" hoặc khi Phạm Duy dùng hình ảnh "cỏ hồng", thì bất cứ một họa sĩ nào cũng có thể họa được một hay vô vàn vách quế, gió vàng, cỏ hồng theo cảm tác riêng của mình. Riêng đối với cỏ hồng, phân tích, tìm hiểu, hoặc nói rõ ra là gì, chỉ làm triệt tiêu giá trị nghệ thuật của từ ngữ nằm trong chỗ mơ hồ, phiếm định. Valéry tuyên bố: "Người ta gán cho thơ tôi nghĩa gì thì gán. Nghĩa mà tôi định, chỉ đúng với tôi và không buộc ai phải theo. Nếu quả quyết rằng mỗi bài thơ phải mang một ý nghĩa đích xác và độc nhất, phù hợp hoặc đồng nhất với một ý tưởng nào đó của tác giả, là một sai lầm đi ngược với bản chất thơ, hủy hoại thơ" (Variété). 
     *Hoán dụ, cũng là thay thế chữ, nhưng chữ thay thế phải có liên hệ tất yếu với chữ bị thay hoặc ngược lại, nhưáo với nhung, lụa, gấm,..., bát với cơm, nước..., chiến tranh với đao binh, binh lửa, gươm đao... Tóm lại, khi thay thế một từ như áo, bằng lụa, nhung, gấm..., người viết đã làm một hoán dụ. 
    Khi thay thế áo bằng một từ khác, không nhất thiết phải có liên hệ gì với áo, như: Người trăng ăn vận toàn trăngcả (Hàn Mặc Tử) hoặc khi thay thế chất liệu để may áo như tơ, lụa, nhung, gấm,... bằng một "thứ" hoàn toàn khác, không có liên hệ gì đến chất liệu ấy như: Ta vận áo xuân đi hớn hở (Huy Cận) thì nhà thơ đã thực hiện những ẩn dụ. 

    Sự khác biệt của hai phép tu từ căn bản ở chỗ: ẩn dụ không có giới hạn chọn lựa, hoán dụ bị giới hạn trong cái quan hệ tất yếu. 
    Hoán dụ không có tính cách phiếm định như ẩn dụ, ngược lại hoán dụ dùng cái quan hệ tất yếu để kết hợpnhững yếu tố có cùng với nhau một mẫu số chung, thành một hệ thống lô-gích. Do đó, đặc tính của hoán dụ: 
    - Bằng kết hợp, biện pháp hoán dụ tạo cho ngôn ngữ sự mạch lạc giữa các ý tưởng. 
    - Nhờ biện pháp hoán dụ, người viết có thể dùng chi tiết để biểu dương hoặc bổ xung toàn diện. 
    - Khi thay thế các trạng thái tâm hồn: buồn, giận, ưu tư,... bằng những động tác hậu quả của các trạng thái đó, hoán dụ có tác dụng kích động, gây cảm xúc.
    Tất cả những yếu tính trên đây được tận dụng trong tiểu thuyết, kịch, điện ảnh,... 


     
    *​

    Trong địa hạt tiểu thuyết, biện pháp hoán dụ giúp các tiểu thuyết gia thay thế kỹ thuật kể chuyện trong văn chương cổ điển bằng kỹ thuật hiện thực. 
    Nghiên cứu về Tolstoi, không thể bỏ qua phương cách tác giả xoáy ngòi bút vào một số chi tiết thuộc cá tính, cử chỉ, diện mạo của nhân vật, rồi lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm: những chi tiết ấy giúp tác giả không cần dài dòng mà vẫn vẽ được chân dung độc đáo của nhân vật, gây ấn tượng, khắc sâu vào trí nhớ người đọc: 
    Trong Chiến Tranh Và Hòa Bình: André mặt mũi khinh khỉnh. Lise có môi trên hơi ngắn, hay cong lên, phủ lông tơ. Hélène hay mỉm cười. Pierre cặp mắt cận thị luôn luôn ngơ ngác như muốn tìm ai trong đám đông. Vassili có những thớ thịt giật giật trên má. Bắp chân trái của Napoléon hay run run... 
    Trong Anna Karénine: Anna thay đổi sắc diện hơn một trăm lần. Riêng xen Anna tự tử: Tolstoi rọi lăng kính vào đồ phụ tùng của người bạc mệnh, vào chiếc ví tay "định mệnh" của nàng, tạo "không khí", gây tác dụng bất ngờ, khiến độc giả xúc động đến tột cùng trước cái chết của Anna. 
    Ảnh hưởng Tolstoi, Nhất Linh cũng đưa những biện pháp hoán dụ tương tự vào tiểu thuyết: Trúc, trong Ðôi Bạn, luôn mồm: "Vì tôi đã nhất định thế rồi". Trong Xóm Cầu Mới, Triết hay ngồi buồn. U già hay nói ngang phè nhưng có lý. Bà Ký Ân mở miệng ra là: "Người trần mắt thịt ôi!". Bác Lê gái hay cốc các con thủng đầu... 

    Thạch Lam nói về kỹ thuật hiện thực: "Tác giả diễn tả bằng chi tiết chứ không bằng lời giảng giải. Những việc xảy ra cả đến sự u uẩn của tâm hồn như những đoạn tả một người sắp chết, một người có ý giết bố, tả tình yêu đắm đuối v.v... tác giả không dùng lời nói dài dòng mà chỉ dùng những chi tiết nho nhỏ để diễn tả. Chính những điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ, một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm lý hơn; những cái mà ta thường coi là nhỏ nhặt vụn vặt hay tỉ mỉ, chính lại là những cốt yếu của tiểu thuyết hay". (Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết, Nhất Linh, viết theo Theo Giòng của Thạch Lam). 

    Nhất Linh hướng dẫn phương pháp nhận xét chi tiết của một nhân vật, ví dụ về cử chỉ: "Có người động ngồi xuống là hai bàn tay phải kéo ống quần tây cho khỏi nát; có người hay chớp mắt luôn; có người hễ nói xong một câu hùng biện là y như chúm môi, mở to mắt nhìn, vừa ngơ ngác, vừa phục mình là tài; có người hay búng tay; có người lúc giảng giải điều gì thì xoay xoay bàn tay mình thành vòng tròn rồi khi kết luận xong, giơ một ngón tay chỉ quãng không, như bảo ta: đấy, chân lý nó ở chỗ ấy đấy v.v... Tất cả những thứ trên này và những dáng điệu khác là cử chỉ của một nhân vật. Nếu chỉ viết: cử chỉ ông ấy thật là điềm đạm, hoặc cậu bé táy máy luôn tay, thì nhân vật kém phần linh động. Phải tả một vài cử chỉ để tỏ cho người ta thấy ông ấy điềm đạm, hay cậu bé táy máy, mà tác giả không cần nói ra". (Sách đã dẫn). 

    Những điều trên đây chứng tỏ Nhất Linh đã sử dụng hoán dụ như một nguyên tắc cơ bản trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. 
    Trong hai trích đoạn dưới đây, Nhất Linh chỉ dùng một chi tiết rửa chân làm động tác chính và vận dụng tất cả những chi tiết khác, xoay quanh chi tiết chính, để mô tả hai nồng độ khác nhau trong tình yêu giữa Siêu và Mùi: 
    "- Nước lạnh chân quá, anh có thấy lạnh không? 
    Miệng nói câu ấy nhưng lòng nàng là muốn diễn với Siêu: "Em đang vui sướng đây! Anh có thấy không?". Siêu nghe tiếng Mùi như vẳng ở đâu rất xa lại và thân yêu như một nỗi nhớ nào từ hồi quá vãng. Chàng nhìn hai bàn chân nhỏ nhắn của Mùi đương bắt chéo hứng lấy giòng nước từ gáo chảy xuống. Chàng loay hoay nghĩ ngợi để tìm một câu tả nỗi vui được gặp Mùi, được sống gần Mùi, nhưng chàng không biết nói câu gì: 
    - Ðôi guốc của cô, tôi đi nhỏ quá, đau cả chân." 

    (Xóm Cầu Mới, trang 265) 
    "Chàng ngồi xuống với đôi guốc đặt cạnh chân Mùi; bỗng chàng yên lặng nhìn hai chân ướt nước của Mùi một lát, hai bàn chân nhỏ xinh và cái bắp chân tròn tròn và chàng nghĩ nếu được ôm lấy hai bàn chân lúc đó mà hôn chắc cũng thích như hôn môi nàng. [...] 
    - Khăn đây, cô lau chân cho khô. Cô lại định đợi tôi hầu như ngày còn bé à? [...] 
    - Ờ nhỉ, thuở bé sao em ghét đi guốc thế, mà anh thì lại cứ bắt em phải đi guốc. Hễ chạy chơi chân không được một lúc là anh đem em đi rửa chân và lau chân một ngày không biết đến mấy bận. Em đến tức. Nhưng bây giờ nhớn rồi, em phải lau lấy chứ! 
    Nàng nói thế nhưng lại khẽ đưa hai bàn chân ra như đợi. Siêu thấy rờn rợn khắp người nửa vì thú nửa vì sợ. 
    - Có nên không? 
    Tuy chàng đã cầm lấy bàn chân mà chàng không biết chàng đã bắt đầu lau từ lúc nào". 

    (trang 604-605)
    Nam Cao đổ dồn các chi tiết vào một hồng tâm: cái mặt của Thị Nở. "Cái mặt" là tiền đồn của vô thức, biểu dương bản năng, chi phối mọi nhận thức, chi phối sinh mệnh con người: 
    "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra; ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công: nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất. Và thị lại nghèo, nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi: Cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân. Người ta tránh thị như tránh một vật rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng" 
    (Chí Phèo, trang 27).
    Võ Phiến tận dụng những chi tiết với một phong cách khác. Ông tàn nhẫn quan sát đến độ soi mói: quanh cách gắp món ăn, các lượng thông tin đổ đến một cách dồn dập, các chi tiết liên tiếp kéo theo nhau như được rút tự mớ bòng bong, khiến người đọc có cảm tưởng như lạc vào mê hồn trận: 
    "Vừa đối diện với mâm cơm, bằng một cái liếc rất nhanh hắn đã định ngay được giá trị từng món ăn, chọn ngay được món ăn ngon nhất. Và từ đầu đến cuối bữa ăn, hắn tấn công vào trọng tâm một cách kiên nhẫn, nhưng khôn ngoan lạ kỳ [...]. Hắn tính toán chu đáo, gắp khắp các đĩa, nhưng tổng kết lại thì thế nào cũng gắp được món ngon nhiều hơn cả, và hắn theo dõi ngọn đũa của tất cả các thực khách, không dung thứ cho một người nào hơn mình. Hắn cạnh tranh kín đáo nhưng ráo riết. Hắn bực mình nhất là gặp phải một kẻ lơ đãng. Kẻ lơ đãng đôi khi thình lình tấn công liên tiếp vào món ngon, như một cua rơ tự nhiên bức phá, làm cho hắn phải ra sức đuổi theo kèm sát. Có để ý đến thái độ của hắn trong những trường hợp này mới thấy hắn khéo léo thần tình. Hắn lầm lì như không hề quan tâm chú ý đến đối phương nhưng hắn suy tính chín chắn và phản công trả đũa, chận đứng đối phương rất nhẫn tâm. Bình thường thì ngọn đũa trí trá của hắn thu lại đầy ý thức chuẩn bị, rồi đột nhiên vụt phóng ra nhanh nhẹn lạnh lùng như một con cò già lão luyện phóng mỏ bắt ruồi, trăm lần không sai đích một lần. 
    Tôi đã thấy những cái liếc trộm lanh lẹ của hắn có ý nghĩa canh giữ phòng thủ trên mâm cơm, những thủ đoạn giả vờ vô tâm, đãng trí của hắn, sự chọn lựa cân nhắc tỉ mỉ của hắn v.v... Nhưng đáng ghét nhất vẫn là đôi đũa và cái miệng của hắn. Cặp mắt thì chỉ biểu lộ cái gì hắn muốn biểu lộ, còn bàn tay và cái miệng thường vô tình phản ảnh cả cái phần vô ý thức mà hắn quên kiểm soát giấu giếm. Người ta thấy đôi đũa của hắn dụm lại trong lòng chén như hai chân trước của một con ngựa chấp chới sắp sửa nhẩy qua rào, và mép trên của hắn run nhấp nháy lúc nào cũng đang sửa soạn. Cái bình tĩnh bề ngoài của hắn mâu thuẫn với những nét run run khe khẽ nóng nảy ở bàn tay, những giậm giật nhấp nháy của đôi đũa và mép, những ham muốn ti tiện dồn ép bên trong". 

    (Dung, Truyện Ngắn I, trang 36)

    Nguyễn Huy Thiệp cũng dồn công lực vào bữa cơm, nhưng với phong cách hoàn toàn khác Võ Phiến: 
    "Chị Hiên mời: "Các em xơi tự nhiên". Thằng Tiến đòi: "Cho em làm các cụ với!" Mẹ Lâm gạt đi: "Hỗn nào! Chim bằng quả ớt thì làm các cụ ra sao?" Cái Khanh bụm miệng cười. Tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở dài: "Các cụ toàn chim to..." Mọi người cười lăn, chỉ có bố Lâm không cười. Khuôn mặt ông sạm đen, vất vả, nhưng không buồn tí nào, bình thản, vô sự. Thằng Tiến khóc. Chị Hiên dỗ nó: "Nín đi! Chị cho Tiến cái càng cua này". Thằng Tiến lắc đầu: "Ừ ừ... Càng cua bé tí". Chị Hiên bảo: "Ngày mai chị đi chợ, chị mua cho Tiến bộ tam cúc nhé". Mẹ Lâm bảo: "Cờ bạc là bác thằng bần. Ðừng mua tam cúc cho nó. Lớn lên nó ham chơi thì chết! Cứ mua cho nó cái roi!" Thằng Tiến lại khóc: "Mua tam cúc cơ". Chị Hiên đưa mắt sang mẹ Lâm, giấu cái nhìn đồng lõa: "Ừ mua tam cúc". Bà Lâm bảo: "Ngày xưa có ông Hai Chép lái đò ham đánh tam cúc ăn tiền, đầu tiên mất tiền, rồi mất ruộng, mất đến nhà, vợ nó cũng bỏ đi nốt. Thế là đến đêm ra thuyền ngồi khóc. Giận đời, lại muốn chuộc tội, ông Hai Chép lấy dao cắt phăng hai hòn dái của mình vứt xuống sông. Vợ nó cũng chẳng quay lại." Mẹ Lâm bảo: "Ðàn bà thế là bạc". Bà Lâm bảo: "Bạc gì? Có hai hòn dái là của quý thì mất rồi còn đâu?" Chị Hiên cười: "Gớm, chuyện của bà cứ rờn rợn là!" 
    Bữa cơm qua nhanh. Cái Khanh vét nồi quèn quẹt. Chị Hiên hỏi tôi: "Hiếu ăn có no không?" Tôi gật đầu: "Em ăn được bốn bát. Ở Hà Nội em chỉ ăn ba bát." Mẹ Lâm bảo: "Trai tráng ăn bốn bát thì hèn. Ông nhà tôi phải chín bát lèn chặt. Tôi cũng sáu bát mới đủ no." Chị Hiên bảo: "Con chịu u, con chỉ ba bát là hết mức." Bà Lâm bảo: "Ăn đi con ạ. Ðàn ông nó chẳng thương mình đâu. Rượu thì nó ngồi mâm trên. Ngủ thì nó đè lên mình." Bố Lâm gắt: "Bà lão hay nhỉ!" Bà Lâm lẩm bẩm: "Hay con mẹ mày! Tao tám mươi tuổi đi nói sai à?" 

    (Những Bài Học Nông Thôn).
    *​

    So sánh những trích đoạn trên đây của các nhà văn nổi tiếng, chúng ta nhận thấy họ đều đã sử dụng hoán dụ một cách tài tình. Mỗi người chọn một chi tiết trong một khung cảnh và xoáy sâu vào chi tiết đó để mở rộng các khung cửa khác với bút pháp và phong cách khác nhau: 
    - Nhất Linh trầm tĩnh, an nhiên, tế nhị, thư thái và cốt cách: Nhấm nháp từng mùi hương, hơi thở của cuộc đời trong sự trầm tĩnh khoáng đạt. Nhất Linh sống với thiên nhiên, tìm thấy hạnh phúc trong tự tại và tạo một bình minh trong tâm hồn. 
    - Nam Cao sử dụng mỗi chi tiết trên khuôn mặt như một trò chơi quái ác của định mệnh. Hoán dụ ở đây được lập lại như một nhấn mạnh để đi đến cùng cực của cái xấu và cái bất hạnh: làm như tả thế vẫn chưa đủ xấu, tác giả còn bồi thêm mỗi lần (đã thế..., đã thế..., và thị lại..., và thị lại... ) một chi tiết mới, tiếp sức cho chi tiết cũ; như thể càng nhìn kỹ cái diện mạo ấy, càng thấy sự tán tận lương tâm của Thượng đế và định mệnh. Nam Cao sần sùi, trần trụi, vẽ cuộc đời trong trạng thái bán khai nguyên thủy: Diện mạo phản ảnh bản chất và định mệnh con người. 
    - Võ Phiến dùng bữa ăn như một bàn cờ người: Qua cách ăn uống, con người bộc lộ phần tâm lý sâu xa của mình trên ba địa tầng: vô thức, tiềm thức và ý thức. Vô thức là phần sâu nhất, có tính bản năng. Vô thức quyết định các hoạt động của cá nhân. Tiềm thức trung gian giữa vô thức và ý thức. Tiềm thức chịu trách nhiệm về con người bình thường trong đời sống hàng ngày. Và ý thức là phần con người "văn hóa" sống trong "đạo đức xã hội". Ðối diện với mâm cơm, con người biểu lộ cả ba địa tầng tâm lý, đem hết tiềm lực ra để "tranh đấu cho sự sống còn" của mình và bộc lộ cả bản năng lẫn bộ mặt "đạo đức xã hội": tư cách, thủ đoạn, tham vọng lẫn cuồng vọng. 

    - Nguyễn Huy Thiệp là một trường hợp đặc biệt phức tạp. Trong văn phong ông, cấu trúc hình thức đan cài cấu trúc nội dung. 
    Về mặt hình thức, Nguyễn Huy Thiệp dùng hoán dụ để rút gọn ngôn ngữ đến chỗ quánh đặc. Hầu như tất cả đều là những mệnh đề độc lập. Bỏ liên từ (không còn: vì thế, cho nên, nếu, rằng, thì, là, mà...) theo lối cấu trúc kịch và thơ, nhưng trích đoạn trên đây hầu như không có chất thơ. Cách rút gọn lời nói của Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu để sản xuất một lượng thông tin lớn nhất trong một số chữ nhỏ nhất. Trong 395 chữ, Nguyễn Huy Thiệp đã phác họa một bữa ăn gia đình và qua đó là hình ảnh xã hội Việt Nam hiện nay: Chiếu trên chiếu dưới, cá lớn nuốt cá bé. Giai cấp có quyền ngu muội (tượng trưng bằng những người đàn ông mà tiêu biểu là ông Hai Chép) đàn áp những người có trí óc, sáng suốt minh mẫn nhưng yếu thế (tượng trưng bằng đàn bà, con nít mà tiêu biểu là thằng Tiến và bà Lâm). Nguyễn Huy Thiệp đã dùng hoán dụ trên ba đẳng độ: 
    1- để rút gọn lời nói; 
    2- rồi dùng lời nói để mô tả bản năng và tri thức của con người. Lời nói (đối thoại) ở đây giữ địa vị chủ yếu, như trong kịch, nó nắm toàn diện tác phong các nhân vật; 
    3- tác phong nhân vật trong bữa cơm nói lên tác phong đạo đức xã hội Việt Nam hiện đại.
    Nguyễn Huy Thiệp đã thấu triệt phương pháp hoán dụ. Ngoài ra, dùng một bữa ăn gia đình để nói lên bộ mặt của xã hội Việt Nam cũng lại là một biện pháp ẩn dụ; và ẩn dụ cũng là sở trường của Nguyễn Huy Thiệp. Sau cùng, Nguyễn Huy Thiệp dùng ngôn ngữ trần trụi và dung tục của người dân quê để chống lại thứ ngôn ngữ giáo điều, bài bản, dài dặc và trống rỗng thường thấy trong xã hội. 
     
    *​

    Trung gian giữa văn và thơ là những tiểu thuyết viết bằng thơ (truyện Nôm). Trong Kiều, sự giao thoa giữa kỹ thuật viết văn và làm thơ được thể hiện trên toàn thể tác phẩm. Ở đây, hoán dụ đóng một vai trò quan trọng. 
    Tả người, chỉ cần một vài chi tiết, Nguyễn Du đã vẽ nên những chân dung toàn bích: 
    Mã Giám Sinh: 
    Quá niên trạc ngoại tứ tuần 
    Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao 

    Từ Hải: 
    Râu hùm, hàm én, mày ngài 
    Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao 

    Tú Bà: 
    Thoắt trông lờn lợt màu da 
    Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao. 

    Tả cảnh, cũng chỉ vài chi tiết chấm phá, Nguyễn Du đã họa xong một bức ấn tượng: 
    Cỏ non xanh tận chân trời 
    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa 
    ... 
    Dưới dòng nước chảy trong veo 
    Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

    Trên đây, Nguyễn Du đã dùng hoán dụ như một kỹ thuật hiện thực để tả người, tả cảnh. Ngoài ra Nguyễn Du còn tận dụng hoán dụ như một phương pháp cung cấp lượng thông tin tối đa, tương tự như các tiểu thuyết gia cận đại và hiện đại. 

    Chúng ta thử so sánh những câu thơ sau đây trong Lục Vân Tiên và Kiều: 
    Khoan khoan ngồi đó chớ ra 
    Nàng là phận gái, ta là phận trai. 

    (Lục Vân Tiên)
    và 
    Xắn tay, mở khóa, động đào 
    Rẽ mây, trông tỏ lối vào thiên thai.
     
    (Kiều)
    Không đả động đến khía cạnh nghệ thuật, chỉ xét sự tương quan giữa lượng chữ với lượng thông tin: 
    Trong 14 chữ của Nguyễn đình Chiểu, thật ra chỉ có hai chữ đắc dụng: khoan khoan. Vì khoan khoan tức là ngồi đó mà ngồi đó thì chớ ra. Còn nàng là phận gái, ta là phận trai thì hoàn toàn vô dụng (vô dụng khác với vô nghĩa: trong thơ có rất nhiều chữ, nhiều câu lẩn thẩn, vô nghĩa). 
    Cũng với 14 chữ, Nguyễn Du diễn tả bốn động tác của Kiều: xắn tay, mở khóa, rẽ mây, trông tỏ và tung ra ba bối cảnh hoặc tâm cảnh: động đào, lối vào, thiên thai. 
    Như vậy cùng với một lượng chữ, tùy theo tác giả mà chúng ta có thể có những lượng thông tin cao thấp hoàn toàn khác nhau. Chúng ta đã biết Nguyễn Du sử dụng ẩn dụ một cách toàn bích; ở đây lại thấy Nguyễn Du quán triệt hoán dụ tới mức tài tình: do đó mà truyện Kiều rất ít những lời vô dụng. 
     *Biện pháp hoán dụ trong văn vừa có tác dụng rút ngắn ngôn ngữ, vừa có tác dụng mở rộng chi tiết, thể hiện như con dao hai lưỡi. Sử dụng đúng mức, nhà văn có thể làm thành sở đắc: dùng ít lời mà truyền được nhiều lượng thông tin, khiến cho văn bản súc tích. Ngược lại, khi đi sâu vào quá nhiều chi tiết, làm rối rắm độc giả thì thành sở đoản: nhà văn đã sa vào cái bẫy của hoán dụ. 
    *Trong địa hạt điện ảnh, biện pháp hoán dụ được áp dụng tương tự như trong tiểu thuyết: Dùng cận ảnh (gros plan) trên một chi tiết để biểu dương toàn diện. 
    Trong phim L'Amant (Người tình), Jean Jacques Annaud quay gros plan trên đôi giày của cô bé để mô tả nỗi phong trần của Duras vị thành niên: chi tiết ấy giúp Annaud tiết kiệm được nhiều bối cảnh và phân cảnh. TrongHiroshima mon amour, Duras dùng gros plan trên vai, trên chân của cặp tình nhân để mô tả cảnh làm tình. Phương pháp ấy giúp đạo diễn nói lên toàn diện một cách kín đáo và tế nhị. Sang địa hạt trinh thám, Alfred Hitchcock hay dùng đồ phụ tùng của nhân vật để tạo cảm giác căng thẳng. Quay gros plan trên dấu giầy, khăn foulard, bật lửa bỏ quên, thuốc lá cháy dở,... trước hoặc sau khi xẩy ra án mạng; kích thích khán giả liên tưởng tới chủ nhân các vật dụng đó, có thể là nạn nhân hoặc thủ phạm. Những gros plan này gây cảm giác rùng rợn vì tác dụng bất ngờ, khơi gợi trí tò mò, kích thích khả năng nhận xét, tìm tòi của khán giả. 
    Ngoài ra, biện pháp hoán dụ còn được sử dụng trong kỹ thuật lắp ghép (montage) các chi tiết trong điện ảnh tương tự như trong tiểu thuyết. Nguyễn Phan Cảnh nhận xét: 
    "Tiến độ (tempo) của các văn bản thơ từ lâu đã được nhận thức như là một vấn đề cốt tử. 
    Ðó là, trong một đơn vị thời gian, số cảnh càng nhiều thì lượng thông tin càng lớn, tiến độ càng nhanh, sức chú ý của người nhận càng tăng. 
    Ngược lại, nếu các cảnh dàn trải thì số cảnh trong một đơn vị thời gian sẽ bị ít đi, lượng tin bé, tiến độ chậm, sức chú ý của người nhận giảm sút." 

    (Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn Ngữ Thơ, trang 115)
    Ðạo diễn Trần Anh Hùng, trong Cyclo (giải Sư Tử Vàng, Venise 1995) đã tận dụng cận ảnh như một biện pháp vừa ẩn dụ, vừa hoán dụ để "quay" cảm giác và "quay" nội tâm nhân vật, đồng thời kích thích cảm giác người xem. Với tiến bộ (tempo) rất nhanh, Trần Anh Hùng tạo không khí dồn ép, bức bách khán giả đến độ nghẹt thở; chưa kịp "tiêu hóa" ảnh này, đã bày ra cảnh khác. Ðạo diễn sáng tạo một ngôn ngữ điện ảnh mới, không dùng hình ảnhõ để kể chuyện mà dùng hình ảnh như một "chất liệu" giống như nhà thơ dùng chữ để tạo dựng một tác phẩm nghệ thuật. Tiến độ cực nhanh cưỡng ép người xem phải tập trung tư tưởng tối đa để giải mã những mấu chốt, nghệ thuật và tâm linh, xã hội và con người ẩn sau mỗi hình, mỗi ảnh. 
    Biện pháp hoán dụ trong điện ảnh cũng như trong văn chương, có tác dụng cô đọng tác phẩm, sắp xếp các chi tiết một cách mạch lạc, đồng thời tác động vào óc phân tích, óc thực nghiệm, óc hiếu kỳ của khán/độc giả, lôi cuốn họ phải theo dõi cuốn phim hoặc đọc đến đoạn kết câu truyện. 
     *Sau cùng, chúng tôi xin trở lại thí dụ: 
    Thuyền về có nhớ bến chăng? 
    Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền.

    Khi ví: anh như con thuyền, em như cái bến, tác giả hai câu ca dao trên đã có ẩn ý ràng buộc anh với em bằng liên hệ thuyền-bến: Do đó, ẩn dụ "thuyền-bến" cũng có một quan hệ tương liên, vì thế hàm chứa tính chất hoán dụ. 
    Trong thơ văn, chúng ta đã thấy Nguyễn Du sử dụng và tận dụng cả ẩn dụ lẫn hoán dụ một cách tài tình. Trong tiểu thuyết, khi Nguyễn Huy Thiệp dùng một bữa cơm gia đình để nói lên bộ mặt của xã hội Việt Nam, khi Nhất Linh mượn cảnh rửa chân để biểu hiện nồng độ tình yêu giữa Siêu và Mùi, khi Võ Phiến dùng mâm cơm để đả động đến tư cách và bản năng của con người, khi Nam Cao dùng diện mạo để để biểu dương định mệnh: Tất cả những hoán dụ và ẩn dụ ấy ít nhiều đều có tính cách tương liên. Ðiều đó chứng minh sự khẳng định của Jakobson: "Mọi ẩn dụ đều phảng phất tính hoán dụ và mọi hoán dụ đều có ít nhiều tính cách ẩn dụ" (Questions de poétique). 
    Mặc dù bản chất của thơ là mơ hồ, phiếm định, bản chất của văn là xác đinh và dẫn giải, hệ luận trên đây giải thích những tương quan mật thiết giữa văn và thơ: Tại sao trên căn bản dị biệt sâu xa, thơ văn lại giao thoa đến độ khó có thể tách rời nhau ra được. 
    12/1992 - 10/1995​
    Theo Thụy Khuê

    Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

    Mùa đã khác




    Phố vẫn nắng vẫn mưa

    Chỉ có mùa đã khác
    Có lẽ lá thu xưa
    Đã làm mùa tan nát
    Hay nắng thu xưa
    Đã tan nát một mùa
    HBT

    Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

    Giang sơn của em

    Giang sơn của anh là tiền tài địa vị
    Giang sơn của em là những lời hoa mỹ
    Khi bục giảng buồn bụi phấn chẳng muốn bay
    Giang sơn của em là căn bếp chiều nay
    Bên bát canh mồng tơi ấm nóng
    Chiều mùa đông giữa căn nhà lạc lõng
    Nắng chiều rơi ngỡ bóng các con về
    Giang sơn của em là những buổi chiều quê
    Đếm bước chân các con đi về trong nỗi nhớ
    .....
    HBT
    Nhớ 2 nhóc nhà mình lôi về cho đỡ nhớ...








    Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

    Màu bình yên


    Đi QUA MÙA GIÓ

    Ta đi qua mùa gió
    Lá đổ ngập lối về
    Gió thì thầm run rẩy
    Sao mùa dài lê thê

    Ta đi qua mùa thu
    Cây mùa trơ trụi lá
    Gió thì thầm mặc cả
    Mua chiếc lá vàng bay

    Mùa gió về cuốn sạch những cơn say
    Tĩnh khô mở cửa...
    HBT