Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc có nhiều trăn trở, tìm tòi, thúc đẩy công cuộc đổi mới văn học VN hiện đại. Nhiều truyện ngắn viết sau 1975 của ông đã gây xôn xao, được xem là hiện tượng nổi bật của văn học thời kì đổi mới. Truyện ngắn Bến quê là một tác phẩm xuất sắc, thông qua các tình huống có tính nghịch lý, những chi tiết sinh hoạt đời thường, nhà văn muốn đưa đến cho người đọc những triết lý giản dị mà sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết về cuộc đời.
Nhĩ - nhân vật chính của truyện đã từng làm công việc mà nhờ đó anh có điều kiện đi khắp nơi, không sót một xó xỉnh nào trên trái đất. Tác giả không cho chúng ta biết rằng trước khi lâm bệnh Nhĩ làm nghề gì, địa vị xã hội ra sao nhưng bằng vào chi tiết Nhĩ được đi khắp nơi trên thế giới, có thể đoán định được anh là một người có vị trí công việc quan trọng. Nhưng chính cái thời gian Nhĩ ốm liệt giường mới là quãng thời gian quan trọng, có ý nghĩa lớn hơn cả so với cả một đời bôn ba và những chuyến đi liên tiếp đến mọi chân trời xa lạ. Giờ đây bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển lấy vài mươi phân trên chiếc giường hẹp, anh phát hiện ra cái không gian trước mắt không quá một tầm nhìn từ cửa sổ nhà anh mà lại xa lạ đến mức tự trách sao mình chưa đặt chân đến đó bao giờ. Một nỗi khao khát khó hiểu đã đến với anh: anh muốn đi đến cái không gian ấy nhưng không thể thực hiện được nên đã nhờ Tuấn – đứa con trai học đại học tại một thành phố phía Nam vừa mới nghỉ hè trở về – thay anh đặt bước chân qua bến sông.
Từ lúc đứa con trai lộp bộp đôi dép sa bô xuống thang gác, anh hồi hộp, gắng gom góp sức tàn để theo dõi con đò mỗi ngày một chuyến đang tách khỏi bãi bồi bên kia để sang bên này và anh cũng kịp nhận ra rằng, thằng Tuấn con anh đã chậm chân vì mải sa vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Thời gian được anh tính từng cái tích tắc, thế mà thằng Tuấn có hiểu được anh đâu. Nhưng làm sao nó hiểu được khi chưa đối diện với sự ngắn ngủi nghiệt ngã của thời gian như anh. Anh “nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có gì đáng gọi là hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh là người từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết vẻ giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, bởi lẽ không bao giờ giải thích hết.”
Trong tâm lí nhân vật, đây không phải là trạng thái nặng nề của sự cắn rứt lương tâm mà chỉ là một niềm hối tiếc pha chút ân hận: sao trong những năm tháng trải bước khắp mọi phương trời, ta lại không một lần ngoái về để nhìn ra được vẻ đẹp của những gì thân quen, gần gũi nhất. Đó là bước nhận thức của tâm hồn và trí tuệ trên lộ trình dài dặc quanh co của đường đời. Cũng chính từ tình huống này mà suy tư, chiêm nghiệm được bộc lộ đa chiều và thấm thía.
Nhĩ đã phát hiện vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp bình dị mà hết sức quyến rũ. Đó là cái bãi bồi bên kia sông lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những sắc màu thân thuộc như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ.
Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Nhĩ cũng hiểu rằng mình sắp giã biệt cõi đời, trong anh bừng dậy một niềm khao khát vô vọng, nhỏ bé mà lại trở nên quá lớn lao, xa vời mà giờ đây Nhĩ chỉ chỉ tưởng tượng chứ không thể thực hiện được.
Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống. Những giá trị bình thường ấy thường bị người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi nhưng ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến.
Sự nhận thức này chỉ đến được với người ta khi con người đã từng trải, Nhĩ đang ở những phút cuối đời, đang nằm liệt trên giường bệnh, mới thức tỉnh về điều đó có xen với niềm ân hận xót xa mà không thể nào giải thích được. Một con người đã từng đi khắp mọi chân trời xa lạ giờ đây mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn vẻ đẹp của cái bãi bồi bên sông ngay trước cửa sổ nhà anh.
***
Hoàn cảnh của Nhĩ bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, phải nằm liệt một chỗ, mọi sự đều phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ con. Trong cái buổi sáng hôm đó Nhĩ nhận ra rằng thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Lúc này anh mới nhận ra tình yêu thương sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của Liên, vợ anh. Anh thoáng ân hận về sự vô tình của mình đối với vợ.
Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh. Liên đã nói những lời chân thành: “miễn là anh sống luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này… ”.Chưa bao giờ Nhĩ nghe rõ những tiếng bình dị, thân thương như thế.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho hình ảnh Liên xuất hiện trong dòng suy nghĩ của Nhĩ vào những ngày cuối đời. Lúc này Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn sâu sắc người vợ: “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ chính điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật là sâu sắc và đầy ân tình.
Liên như là hiện thân của cái bến quê mà Nhĩ đã từng không nhận ra. Nhĩ nhìn thấy tấm áo vá của vợ khi anh đã nhận thức được giá trị của cái gần gũi, bình dị. Sự tần tảo, chịu đựng hi sinh ở Liên cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung.
Cảm thức mỗi ngày trôi qua với anh thật dài dằng dặc: “Hôm nay đã là ngày thứ mấy rồi em nhỉ?” - “Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”.
Trong cảm thức của anh, thời gian còn lại thật vô cùng ngắn ngủi, không gian tâm lí diễn ra trong cái nhỏ hẹp của tấm phản, căn phòng, khung cửa sổ. Bến sông quê cạnh nhà gần gũi thế nhưng sao mà xa cách trong tâm thế phát hiện lần đầu với nỗi vô vọng bất lực của nhân vật. Nó là không gian hiện lên trong sự đối sánh đầy chất đối nghịch với không gian tạo bởi cái nhìn xa vào tương lai và niềm tin để an ủi: “– Anh cứ tập tành và uống thuốc cho đều. Sang tháng mười nhất định anh đi lại được; – Vậy thì đầu hoặc giữa tháng mười một, anh sẽ đi Thành phố Hồ Chí Minh một chuyến; hoặc “nếu tiến triển tốt hơn, em có thể đỡ anh men cầu thang bước xuống một bậc…hoặc giả anh lại khoẻ hơn, chúng mình có thể bước xuống hai bậc; – Ừ , tưởng gì…nhất định đầu tháng mười anh sẽ đi ra được đến đầu cầu thang…”
Cùng với không gian ấy là sự đối chứng của thời gian thực tại ngắn ngủi đời thường mà Nhĩ đã trải qua. Cái bến quê được đặt trong tương quan không – thời gian đó. Nó là tất cả những phát hiện ấm áp tình người, tình đời của nhân vật mà cũng là của tác giả trước những gì thân quen nhất, thân yêu nhất, những gì hồn nhiên, gần gũi nhất, những gì là giàu có, đẹp đẽ nhất, thuần phác nhất và cổ sơ nhất mà khi gần về nhắm mắt xuôi tay ta mới nhận ra.
Bến quê theo ý nghĩa đó là một nhận thức sáng ngời của nhân vật về đường đời và cuộc đời. Nhưng thật oái oăm chính khi anh thức nhận ra được chân lí ấy thì anh lại không còn khả năng để thực hiện. Đó là sự bất lực của thực tiễn trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh như một yêu cầu tất yếu. Người đọc trân trọng Bến quê, trân trọng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người hãy trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của quê hương.
Với Nhĩ lúc này, gia đình là bến tình thương, bến hạnh phúc. Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Nằm trên giường bệnh ngắm con, Nhĩ xúc động khi thấy càng lớn, thằng con anh càng có nhiều nét giống anh. Còn những đứa trẻ con hàng xóm dễ thương và ngoan ngoãn: “Cả bọn trẻ xúm vào, và rất nương nhẹ, giúp anh đi nốt nửa vòng trái đất - từ mép tấm nệm nằm ra mép tấm phản, khoảng cách ước chừng năm chục phân”. Đó là ân huệ mà cuộc đời dung dị, hồn nhiên đem lại cho Nhĩ là hạnh phúc từ cái bình dị. Chúng đã giúp anh xê dịch trên giường làm cho anh được tận hưởng sự chăm sóc một cách thích thú. Lúc này anh càng thấy yêu chúng hơn dù đôi bàn tay của chúng “chua lòm mùi nước dưa”. Hoá ra hạnh phúc là những gì rất bình thường, gần gũi mà ngày thường ta lãng quên, chỉ đến khi sắp mất nó đi ta mới nhận ra.
***
Câu chuyện của Nhĩ với cậu con trai đã giúp anh có thêm chiêm nghiệm về một quy luật của đời người. Khi phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi trên sông và Nhĩ có khao khát được đặt chân lên vùng đất ấy. Anh không thể nào làm được cái điều mà mình khao khát nên anh đã nhờ đứa con đi sang bên kia sông. Nhĩ muốn con thay mặt mình đi qua sông để ngắm nhìn những cảnh vật thân quen, bình dị mà hầu như suốt cuộc đời bố đã lãng quên.
Ấn tượng khi đọc Bến quê của Nguyễn Minh Châu là ấn tượng về một cái gì đó như là đứng trước “mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”. Có cái gì xót xa trong cái màu đậm sót lại kia. Có điều khác thường khi ham muốn cuối cùng của một đời người chỉ là nhờ con sang bến sông ngay bên nhà mình: “Bây giờ con sang bên kia hộ bố... Chẳng để làm gì cả… Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về".
Có những sự thực vẫn tồn tại như nghịch lí. Tình huống tự sự của Bến quê, trước hết, độc đáo ở điểm này. Một con người "đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất" khi lâm bệnh nặng không thể đi được nữa mới chợt nhận ra "một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa nhà mình". Khi có thể tới được Bến quê một cách dễ dàng thì không nghĩ tới, không tới; khi không thể tới được thì lại "say mê", "ham muốn" - đó là nghịch lí.
Ngịch lí ấy nói lên một sự thật là: có khi, cái người ta mơ ước, khát khao, cái người ta không thể có không phải điều gì to tát, lớn lao mà lại là những điều hết sức nhỏ bé, thường tình. Người ta vươn tới chính những giá trị bình dị. Mảnh đất mơ ước ở ngay bến sông quê đây thôi.
Cốt truyện của Bến quê thuộc loại "cốt truyện tâm lí". Tình huống mà ta gọi là nghịch lí trên đây chỉ là nghịch lí trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật. Nếu không nhận thức một cách sâu sắc về ý nghĩa đích thực của những cái gần gũi, bình dị, nếu đã không từng đặt chân tới mọi xó xỉnh của trái đất như Nhĩ thì việc chưa từng đặt chân đến cái bến sông cạnh nhà, việc không thể tới được mảnh đất mơ ước quá đỗi gần gụi kia sẽ không khác thường, không nghịch lí, sẽ lại trôi tuột đi như lẽ thường vẫn thế. Tình huống âý là tình huống để nhân vật bộc lộ cái thế giới bên trong, để "phân tích" niềm "mê say đầy đau khổ" của con người đang tiến dần tới hạn mút cuối cùng của sự sống, để thấy được cái giản dị nhưng bền vững của chân lí nhân sinh.
Nghĩa là sức nặng của toàn bộ thiên truyện dồn cả vào sự thể hiện thế giới nội tâm của Nhĩ. Có thể thấy mạch tâm trạng của Nhĩ diễn ra theo hai chặng: trước và sau khi Nhĩ nhờ anh con trai sang sông.
Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được". Cả đời Nhĩ đã nhỡ chuyến đò ấy, giờ đây đứa con không hiểu được ước muốn của cha, không thể hiểu được đằng sau cái mong muốn "kì quặc" của người cha sắp từ giã cõi đời là cả một câu chuyện mang ý nghĩa triết lí cuộc đời. Giống như Nhĩ đã từng chưa bao giờ nghĩ tới mảnh đất bến quê sông Hồng kề cạnh nhà mình. Vì vậy anh con trai của Nhĩ đã làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Điều khát khao của anh đang bị trì hoãn, chính điều này làm cho anh thêm trĩu nặng suy tư và cả sự đau đớn.
Trong sự lo lắng, khắc khoải vốn thường trực của một người đang sống những giờ phút cuối cùng, Nhĩ đã ngẫm ra: "con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại nó đã thấy có cái gì hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết".
Người ta khó có thể làm lại được những gì thuộc về quá khứ, không thể đi lại những chuyến đò đã nhỡ. Cái bến quê rất gần, và không khó khăn gì để đến đó, nhưng nếu cứ mắc vào cái mớ "chùng chình" thế cuộc rất có thể ta sẽ không bao giờ đến được.
Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người: ”Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Ở cuối truyện, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc : “Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó ”. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn: Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đi đến một nhận thức về cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, những hiểu biết và toan tính của con người.
Những ý nghĩa của tình huống nghịch lý nói trên không dừng ở đó, nó còn là những tổng kết mang tính trải nghiệm của cả đời người mà chỉ khi sắp giã biệt cuộc đời, ta mới cảm nhận thấm thía.
Tác phẩm đem đến cho người đọc những cảm nhận thấm thía về bến quê. Đó là những gì thân thiết với mỗi người, là bông hoa bằng lăng, là chuyến đò ngang, là bãi bồi, là những người thân yêu trong gia đình và những hàng xóm tốt bụng, thân thuộc … Đó là những giá trị bình thường mà bền vững. Từ đó tác giả đem đến một thông điệp: hãy giữ gìn và trân trọng bến quê bình dị của mỗi người.
Truyện được kể theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ trong cảnh ngộ đặc biệt, cách chọn ngôi kể như vậy đã tái hiện được những tinh tế trong cảm xúc, tâm tư của nhân vật đồng thời tạo được sự đồng điệu của người đọc. Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện giàu chất suy tư. Cảnh vật được miêu tả theo cái nhìn của Nhĩ từ xa đến gần, tạo thành một không gian có chiều sâu và rộng.
Đặc biệt các hình ảnh trong truyện đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất khiến cho các hình ảnh miêu tả vừa có giá trị tạo hình vừa gợi ý nghĩa biểu cảm. Hình ảnh bãi bồi, bến sông vừa là vẻ đẹp của quê hương vừa là vẻ đẹp của đời sống trong những gì gần gũi thân thuộc … mà mở rộng ra là quê hương, xứ sở. Nhiều hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa biểu tượng như bông hoa bằng lăng cuối mùa như đậm sắc hơn, tiếng những tảng đất lở bên bờ sông…gợi ra sự sống của nhân vật Nhĩ đang ở vào những ngày cuối cùng. Hình ảnh anh con trai sa vào đám chơi cờ thế bên đường gợi lên sự vòng vèo và chùng chình mà trên đường đời ta khó tránh khỏi…
Truyện khép lại bằng hình ảnh "chuyến đò ngang mỗi ngày một chuyến... vừa chạm vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này". Bên này là thị thành, bên kia là bến quê. Bên này chông chênh xói lở, bên kia vững vàng bồi đắp. Sự tương phản này như một lời cảnh tỉnh về nhận thức, ý thức giữ gìn những giá trị bình dị, vẻ đẹp của cái thân tình, gần gũi, để người ta không phải thảng thốt bởi "những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ".
Tên của truyện là Bến quê, điều ấy vừa bình thường vừa khác thường. Bến quê không chỉ là một miền quê gần gũi mà còn là một miền mơ ước xa xôi mang ý nghĩa triết lý về con người và cuộc đời. Cái triết lý ấy không cần phải nói dài dòng mà chỉ được gợi lên qua những tình huống đầy nghịch lý để thông qua đó, nhà văn giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét