“Cha ơi, mẹ con đâu?”. Câu hỏi của đứa con thơ dại lại vang lên, và một lần nữa làm con tim tôi đau nhói. “Mẹ đang cùng bà nội sống ở một nơi thật xa, con ạ!” … “Thế sao mẹ Đản không về nhà chơi với Đản?” … “Mẹ còn phải chăm sóc bà mà con. Mẹ Đản về chơi với Đản thì ai sẽ trông nom bà, đúng không nào?”. Đứa bé suy nghĩ một lúc rồi “dạ” một tiếng rõ to và trở lại nô đùa cùng chúng bạn sau khi được tôi giải đáp. Còn tôi lại đứng lặng người, chỉ mong con tha lỗi, vì tôi chỉ có thể trả lời bé như vậy. Nó còn quá nhỏ, quá bé bỏng để có thể hiểu mọi việc. Tôi đã quyết định đến một ngày nào đó, khi bé đã khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe tất cả những gì mà nó đang thắc mắc – câu chuyện về người mẹ thùy mị, nết na. Nghĩ đến đây, khóe mắt tôi đã ngấn lệ, và bao nhiêu kí ức lại ùa về…
Một buổi sáng trong lành, từng chú chim nhảy nhót trên cành và líu lo cất tiếng ca, từng cây lá khẽ đung đưa theo lời ru của chị Gió, mọi vật xung quanh đều tươi tắn, vui mừng như gửi ngàn lời chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi - Trương Sinh – và nàng – Vũ Nương. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc và vui sướng biết bao khi lấy được nàng làm vợ. Nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, cùng sống ở huyện Nam Xương quê tôi. Từ lâu, tôi đã mến mộ tư dung tốt đẹp của nàng. Vẻ đẹp của cả tâm hồn và vóc dáng ấy đã khiến không biết bao nhiêu chàng trai mơ ước, và trong đó có tôi. Tôi quyết định bàn việc với bố mẹ và mang trăm lạng vàng đến hỏi cưới nàng. Cha mẹ hai bên đều ưng thuận, tôi quyết mang đến cho nàng một cuộc sống êm ấm. Thế nhưng, có lẽ nàng đã không nhận được những gì mà nàng tưởng tượng và xứng đáng được nhận, bởi tôi là một kẻ vô học, bất tài vô dụng, và theo như tôi tự nhận thấy thì tôi rất hay ghen. Biết vậy nên cô vợ khôn khéo của tôi luôn luôn giữ gìn đúng khuôn phép, làm tôi cũng rất yên lòng. Thế mà ông trời lại không cho chúng tôi được hạnh phúc. Thành thân với nàng không bao lâu thì tôi lại nhận lệnh phải đi lính, giúp triều đình chống giặc. Tôi không nỡ nào bỏ lại mẹ già ốm yếu và người vợ mà tôi hết mực yêu thương. Nhưng số trời nào có thể tránh, tôi đành ngậm ngùi tòng quân giúp nước trong nỗi buồn chia li vô hạn, bởi tôi biết mình chẳng học hành gì nên không có cách chối từ.
Ba năm dài dằng dặc ấy rồi cũng trôi qua, tôi được trở về nhà sau khi giặc giã đã dẹp yên. Ba năm qua, tôi luôn sống trong nỗi nhớ thương và lo lắng về mẹ và vợ. Tôi quyết nghe theo lời dặn của hai người, không ham danh lợi để quay trở về được bình an. Không còn lâu nữa, tôi sẽ được gặp đứa con trai đầu lòng, được gặp lại mẹ và vợ - những người tôi hằng thương nhớ. Thế nhưng, niềm vui sum họp vừa được nhen nhóm thì tôi đã phải nhận một tin dữ: mẹ tôi đã mất! Ông trời ơi, sao ông lại bất công thế này? Tôi chưa từng làm điều gì xấu, sao ông cứ phải gieo rắc cho tôi những nỗi đắng cay và đau đớn đến vậy? Được nhìn lại khuôn mặt thân yêu của vợ và hình ảnh đứa con bé bỏng, thế nhưng sao lòng tôi không thể nào vui lên được, cứ nặng trĩu một nỗi buồn mất mát. Tôi dắt bé Đản – con trai tôi – cùng đi thăm mộ người mẹ hiền mà tôi hết mực tôn kính. Đứng trước ngôi mộ của mẹ, tôi không kìm nổi nước mắt, cũng bởi tôi quá nhu nhược và chưa làm được gì để báo hiếu cho mẹ. Sao mẹ lại ra đi trong khi con chưa thể đền đáp ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của mẹ? Tôi hối hận và thấy mình sao quá hờ hững lúc trước, không chăm chỉ học tập, nuôi mộng đỗ đạt, trả hiếu cho cha mẹ, để rồi giờ đây tất cả đã quá muộn màng. Tôi ôm lấy bé Đản và cất tiếng bày tỏ nỗi đau của mình cho con nghe. Thế nhưng, than ôi, tất cả như được sắp đặt để đánh ngã bản thân tôi, con tôi hỏi tôi cũng là cha của nó ư? Chẳng lẽ người vợ hiền của tôi đã không chung thủy? Không thể thế được, tình yêu thương mà tôi dành cho nàng là rất chân thật, và nàng cũng hiểu được điều đó cơ mà! Tôi gặng hỏi thêm thì bé Đản kể rằng đêm nào cũng có một người đến bên mẹ nó. Đã vậy, mẹ nó còn bảo đó chính là cha của Đản. Quá nóng vội và để nỗi ghen tuông điều khiển mọi tâm trí lẫn hành động, tôi đùng đùng trở về nhà, không nói không rằng, mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Giờ đây, khi đã hiểu rõ nguồn cơn và nghĩ lại, tôi thấy mình hồ đồ quá! Lúc đó tôi đã bỏ ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng và kể cả những lời khuyên ngăn của bà con làng xóm. Chỉ vì một lời nói ngây dại của con và bản tính bồng bột của tôi mà nàng đã phải chịu nỗi oan nhục kêu trời không thấu. Nàng đã phải tự trầm mình xuống sông Hoàng Giang để bảo vệ cho tiết hạnh của mình. Tôi chỉ cảm thấy một chút tiếc thương, và vẫn cho rằng mình đúng. Cho đến một đêm, tôi cùng bé Đản – lúc này đã ba tuổi rưỡi – ngồi trong căn phòng trống. Dưới ánh đèn dầu mập mờ, bỗng nhiên bé Đản chỉ tay vào bóng của tôi trên 1 vách và reo lên: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Không thể nào, cha của nó lại chỉ là một cái bóng vô tri vô giác thôi ư? Vậy là tôi đã trách nhầm Vũ Nương? Trời ơi, đến giờ tôi mới rõ được nỗi oan của vợ mình. Hằng đêm, nàng đã mượn bóng mình trên vách để giải đáp cho con về cha nó – cũng như tôi đang dối nó bây giờ. Tôi quyết định đi hỏi cặn kẽ từng người thân, hàng xóm và cuối cùng lại phải ân hận đến tận xương tủy khi biết thêm nhiều điều về nàng trong thời gian tôi đi lính… Vợ tôi ngày ngày chờ mong tôi quay về trong nỗi buồn tủi mà khó ai thấu hiểu được. Nàng luôn giữ lòng chung thủy, một mình nuôi dạy con, chăm sóc mẹ tôi và lo toan mọi việc trong gia đình… Nhưng giờ đây, dù tôi có biết chuyện và hối hận thì nàng cũng không thể quay trở về được nữa rồi!
Một hôm, trong lúc tôi đang dạy con học bài thì bỗng có một người đàn ông đến nhà và xin gặp. Anh ta tên là Phan Lang, người cùng làng với tôi. Theo lời anh ấy kể, anh được Linh Phi – vợ vua Nam Hải – cứu giúp khi bị rơi xuống sông Hoàng Giang. Anh ta gặp vợ tôi ở đây và nhận gửi lời nhắn của nàng cho tôi. Lúc đầu, tôi cũng không tin Phan Lang, bởi ở đời làm gì có chuyện lạ kì đến vậy. Nhưng sau khi anh đưa tôi xem một chiếc hoa vàng lấp lánh, tôi nhận ra ngay đây là kỉ vật mà tôi đã mua tặng cho nàng trước khi tôi tòng quân đánh giặc. Tôi nghe theo lời anh, lập đàn giải oan cho vợ bên sông Hoàng Giang, cúng tế ba ngày ba đêm. Quả thật, đến ngày thứ ba thì Vũ Nương đã trở về. Nàng ẩn hiện giữa dòng sông, cờ hoa võng lọng rực rỡ. Nàng trao gửi tấm lòng mình cho tôi và dặn tôi sống tốt. Vì phải chịu ơn Đức Linh Phi nên nàng không thể về được nữa. Tôi ngậm ngùi nhận lời nàng. Nàng mỉm cười với tôi và biến mất, để lại tôi bao nỗi tiếc thương và day dứt. Có lẽ tôi sẽ không thể nào tha thứ cho lỗi lầm mà mình đã gây ra!!!
Giờ đây, khi nhớ lại những kí ức nghiệt ngã ấy, tôi lại càng vững chắc quyết tâm sống tốt hơn, nuôi dạy bé Đản nên người. Con ơi, hãy thay cha thực hiện một ước mong cháy bỏng – cải đổi xã hội phong kiến lạc hậu này, giúp cho đất nước và cuộc sống tốt đẹp hơn, con nhé!
Đề 2. Phân tích tác phẩm Người Con Gái Nam Xương trích truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc mang tính chất truyền kì, song được tôn vinh ” thiên cổ kì bút ” thì đến nay chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Trong tác phẩm ấy đoạn trích Chuyện người con gái Nam Xương được xem như đặc sắc nhất vì đã khắc họa thành công số phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.
Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. Trước đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không mấy ai không biết đến hai bài thơ viếng thăm nàng Vũ Thị trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập. Hai bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ chàng Trương là có thật. Dù truyện đã được dân gian lưu truyền, nhưng không phải Nguyễn Dữ chỉ có làm công việc đơn giản: biên chép lại cho đúng một chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trước đó mà tác giả còn phải nhào nặn lại câu chuyện, làm cho nó gần gũi với người đọc, mang dấu ấn của thời đại mình.
Truyện mở đầu bằng dòng chữ ” Vũ Thị Thiết , người con gái quê ở Nam Xương …”. Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng, không giống như những nhân vật khác: chàng họ Trương, ông họ Phan. Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy đủ họ tên , danh tính để lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là một người đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn ” vốn con kẻ khó “, dung mạo thì không có gì đặc biệt. Thế nhưng nàng đã là một nhân vật lưu truyền nơi hậu thế . Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội. Những ràng buộc khuôn pháp đã không còn vững chắc trong tâm trí ông. Ông quan tâm đến đời sống của mọi người chứ không còn mải mê tìm cảm hứng văn chương trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa.
Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời mẫu người phụ nữ lí tưởng, tuy không phải là giai nhân nhưng lại hội tụ những đức tính, phẩm chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết: ” tính tình thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên trong và bên ngoài của nàng đều vẹn tòan . chẳng khác nào Kiều xưa kia . Thế nhưng càng vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng chữ dung đã thua chữ tài . Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong toàn bộ truyện không còn những câu nào miêu tả vẻ đẹp bên ngòai của nàng Vũ Thị nữa. Vũ Nương đã chiếm được cảm tình của đọc giả không phải là do tư dung mà do chính phẩm hạnh của nàng. Phẩm chất ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên Lữ. Phẩm chất Vũ Nương là tấm lòng của người phụ nữ luôn hy sinh vì gia đình. Từ khi về nhà chồng, Vũ Nương luôn tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay lam hay làm, biết tính chồng hay ghen Vũ Nương luôn cố gắng không để cho vợ chồng thất hòa, rồi còn lo lắng thuốc than và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa. Nàng đã làm tất cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của gia đình. Thật là một người phụ nữ tiêu biểu cho công dung ngôn hạnh ở xã hội xưa .
Trong xã hội xưa, vai vế người phụ nữ trong gia đình thường là thấp bé nhất. Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để lo toan việc nhà, hay kiếm đứa cháu nối dõi tông đường. Vậy nên mối quan hệ mẹ chồng và con dâu xưa nay thường thất hòa. Nhưng trong tác phẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này ca ngợi phẩm giá của mình. Những lời khen này càng trở nên ý nghĩa hơn, có giá trị hơn gấp bội: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ “.
Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn toàn, luôn đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ rẫy, chịu nhiều oan ức. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật đột ngột! Đến khó tin kì lạ. Mới ngày nào người con gái ấy còn thổn thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ: ” Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất khách! Dù có thư nghìn hàng cũng không sợ cánh hồng bay bổng.” Mới ngày nào cuộc tiễn biết đầy vương vấn nhớ nhung: “Ngước mắt cảnh vật vẫn như cũ mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san!” Những câu viết không vượt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có sức lay động lòng người lạ thường vì tình cảm của đôi vợ chồng son ấy rất mực chân thành. Vậy mà trời đã phụ lòng người, chỉ ” qua năm sau ” thôi tất cả đều tan nát. Thay cho “trang”, cho “liễu”, cho “cánh hồng bay bổng” và “mối tình muôn dặm quan san” chỉ còn là nỗi nghi ngờ, những lời máng nhiếc đánh đập đến thậm tệ. Công lao nuôi con dưỡng mẹ, làm tròn bổn phận con dâu đều đổ sông đổ bể, tới mức “không còn có thế lại lên núi Vọng Phu nữa”. Nhưng đáng buồn thay, tai họa này chỉ do một lí do không ai ngờ tới: do cái bóng. Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng chỉ còn biết nói cái bóng là Cha Đản. Thế là bé Đản ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là cha ruột của mình và cứ lầm tưởng rằng cha mình đêm nào cũng đến “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Và khi qua tai Trương Sinh thì những lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật, cái bóng thành người, hại cho đời người con gái tài sắc.
Bóng dần biến thành người. Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả chập chờn trong cái thật. Không phải là người vô cùng thiết tha với hạnh phúc của một gia đình được sum vầy, đoan tụ Vũ Nương không thể nào nghĩ ra trò chơi này. Nào ngờ chính nó đã làm tan nát đời nàng. Khi chỉ cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra chính vì thế mà nàng đã phải lìa xa cõi trần tục. Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh chờ về. Nhưng Nguyễn Dữ tài hoa đã để dành lại chi tiết “thắt nút” ấy để rồi đưa ra ở một vị trí thích hợp trong câu chuyện, gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh khỏi nổ bùng.”Thú vui nghi gia nghi thất”, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc hoàn toàn tan vỡ. “Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao”, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình.
Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ . Tấm bi kich về cái đẹp bị chà đạp phũ phàng. Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc, dung túng cho sự độc ác hủ bại . Nàng đã gặp một người chồng tuy là con nhà hào phú, song ít học lại đa nghi đến mức ghen tuông mù quáng nên không thể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng. Rõ ràng sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến bước đường cùng. Giá như Trương Sinh bình tĩnh tìm hiểu một chút thôi thì tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra. Nhưng đó chỉ là giá như thôi vì Nguyễn Dữ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi
Đề 3. Cảm nghĩ của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Người con gái nam xương"
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó .Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng,ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp,nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tínhcủa một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son .Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời-Đó là thú vui nghi gia nghi thất.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét.Trong những ngày đoàn viên ít ỏi,dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà.Khi tiễn chồng đi lính,mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền,dâu thảo,chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu,ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức ,giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Người thiếu phụ tận tuỵ ,hiếu nghiã ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng .Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến,người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con:“cách biệt ba năm giữ gìn một tiết,tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng ,ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình,phẩm hạnh của nàng.Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông,Vũ Nương là con người của gia đình,đức hạnh của nàng là đức hạnh của một ngườivợ hiền,dâu thảo,một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn,vun vén cho hạnh phúc.Người phụ nữ dịu dàng ,hiếu nghĩa ,tận tuỵ và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề.Nhưng tai ác thay ,một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về,nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư,mắng nhiếc,đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ.Không có cơ hội để thanh minh,trái tim tan nát,tuyệt vọng bởi “bình rơi,trâm gãy,mây tạnh,mưa tan,sen rũ trong ao,liễu tàn trước gió ”.Đến bến Hoàng Giang,người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng:“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…” Với nàng,cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự .Nhịp văn dồn dập ,lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên .Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành?Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó phải tìm đến cái chết bi thảm?Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,xinh đẹp , hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh !Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi.Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay. “nội dung được trích dẫn từ 123doc.vn - cộng đồng mua bán chia sẻ tài liệu hàng đầu Việt Nam”
Đề 4. Cảm nhận về tác phẩm người con gái nam xương.
Thế kỷ 16 là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam.Các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực chém giết lẫn nhau đẩy người dân vô tội đến bước đường cùng không lối thoát.Trong đem trường đen tối đó Nguyễn Dữ là một nhà văn giàu lòng nhân đạo, Ông đã dùng ngòi bút của mình lên án các cuộc chiến tranh phi nghĩa,ca ngợi và bênh vực quyền sống con người , đặc biệt là người phụ nữ.Mà tác phẩm thành công nhất là “Chuyện người con gái Nan Xương”.
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh số phận nhân vật Vũ Nương khi còn con gái, lúc đi lấy chồng và cái chết oan nghiệt. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với chúng ta đó là hình ảnh Vũ Thị Thiết một người con gái “thuỳ mị nết na lại có tư dung tốt đẹp” mà phải chịu nhiều bất hạnh .
Dưới ngòi bút của tác giả Vũ Nương hiện lên là một cô gái hoàn hảo .Thế nhưng dưới chế độ phong kiến người con gái đó đâu có quyền định đoạt hạnh phúc của mình.Chỉ vì nhà nghèo Nàng phải kết duyên với Trương Sinh một anh chàng đa nghi, hay ghen và dốt nát chỉ vì Chàng có “trăm lạng”.Phải chăng trong chế độ thối nát đó ,thân phận người con gái chẳng khác gì một món hàng.Người đọc cảm thấy nao lòng thương cho nàng ,lo cho Nàng trước mối tình ngang trái đó .
Mặc dầu lấy phải người chồng không như ý muốn ,thế nhưng trong những ngày ấy mọi phẩm chất tốt đẹp của Nàng đã được bộc lộ một cách rõ nét .Biết chồng là người đa nghi “phòng ngừa quá mức” nhưng Nàng vẫn dự gìn khuôn phép khiến vợ chồng không bao giờ dẫn đến thất hoà .Phải chăng khi đã có chồng Nàng đã giành toàn bộ tình cảm cho chồng ,cho cái mái ấm gia đình ấy .Chỉ vì một mong ước bình thường của Nàng đó là th vui “nghi gia nghi thất” .Cái mong ước của Nàng cũng là mong ước của tất cả những người phụ nữ Việt Nam . Đọc tác phẩm độc giả chú ý nhất là hình ảnh khi tiễn chồng ra trận .Hãy lắng nghe lời dặn dò của nàng “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang được chữ bình an”.Một suy nghĩ thật là bình dị ,cái suy nghĩ ấy được xuất phát từ một người vợ chỉ mong ước vợ chồng sớm tối sum vầy bên nhau .Những ngày chồng ra trận, mặc dầu nhớ chồng nhưng Nàng không buồn tủi .Trái lại Nàng đã gánh vác mọi trọng trách của gia đình, sinh nở một mình ,thay chồng nuôi mẹ nuôi con,dung hoà được quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” khiến những ngày ấy Nàng là chỗ dựa vững chắc cho cả gia đình kể cả vật chất lẫn tinh thần .Không chỉ thế khi khi mẹ chồng ốm thì thuốc thang chu đáo, khi mẹ chết thì ma chay tử tế lo cho mồ yên mả đẹp .
Ở Nàng ta không chỉ cảm nhận được đức tính đảm đang hiếu thảo mà ở đó còn là trái tim nhân hậu thuỷ chung .Những ngày xa chồng hình ảnh Trương Sinh là hình ảnh thường trực trong trái tim Nàng .Mỗi lần nhớ chồng Nàng thường chỉ bóng mình trên tường nói với con đó là “cha Đản” để khuây đi nỗi nhớ . Nàng có biết đâu rằng chính cái bóng ấy là sợi dây oan nghiệt giết chết cuộc đời Nàng.Có thể nói rằng những đức tính tốt đẹp ấy và niềm khát khao cháy bỏng về hạnh phúc gia đình là động lực to lớn giúp Nàng vượt qua tất cả mọi khó khăn đợi chồng từ chiến trận trở về.
“Chuyện người con giái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc một nỗi đau nhức nhói . Đó là ngày trở về của Trương Sinh .Sau ba năm đằng đặng chờ mong thì ngày sum họp của Nàng với chồng cũng đã đến .Thể nhưng chỉ vì một lời nói ngây thơ của một đứa trẻ “ông cũng là cha của tôi ư ?”…Với bản tính ghen tuông và sự dốt nát sẵn có Trương Sinh đã phủ nhận tất cả những thành quả mà Nàng đã tạo dựng nên .Bỏ ngoài tai tất cả mọi sự can ngăn .Y đã chửi mắng đáng đập Nàng một cách thậm tệ .Thế là cái hạnh phúc gia đình ấy bổng cốc trở thành mây khói. Để minh oan cho sự trong trắng của mình Nàng đã tìm đến cái chết kết thúc mối tình ngang trái đó .Nhưng càn oan nghiệt hơn khi người gây nên cái chết không ngoài ai khác đó là đứa con mấy năm trời